Chỉ số nợ trên tổng tài sản được xem là một trong những chỉ số tài chính rất quan trọng trong việc đánh giá cơ cấu tài sản của một doanh nghiệp bất kỳ. Vậy chỉ số nợ trên tổng tài sản cụ thể là gì? Cách tính hệ số này có phức tạp hay không? Cùng Giavang.com tìm hiểu chi tiết trong bài viết sau đây nhé!
Mục Lục
Chỉ số nợ trên tổng tài sản là gì?
Chỉ số nợ trên tổng tài sản (Debt to Assets Ratio – DAR) là một loại chỉ số thuộc nhóm cơ cấu vốn giúp cho biết các khoản nợ của doanh nghiệp chiếm bao nhiêu % trên tổng tài sản. Hay nói cách khác, bao nhiêu phần trăm tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng nguồn vay nợ.
Xem thêm
- Chỉ số EV/EBITDA là gì? Cách tính và ứng dụng EV/EBITDA trong định giá cổ phiếu
- Chỉ số P/S là gì? P/S bao nhiêu là tốt? Cách sử dụng chỉ số P/S hiệu quả
- Cash Ratio là gì? Chỉ số Cash Ratio cao hay thấp ảnh hưởng như thế nào?
Công thức tính chỉ số nợ trên tổng tài sản
Chỉ số nợ trên tổng tài sản (DAR) được xác định theo công thức như sau:
Chỉ số nợ trên tổng tài sản = Tổng nợ/ Tổng tài sản
Trong đó:
- Tổng nợ: Bao gồm toàn bộ nợ ngắn hạn và nợ dài hạn của doanh nghiệp như: các khoản phải trả vay ngắn hạn, nợ dài hạn do đi vay hay phát hành trái phiếu dài hạn.
- Tổng tài sản: Là toàn bộ tài sản của nghiệp.
Về các dữ kiện để tính chỉ số DAR, toàn bộ sẽ đều có sẵn trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp, cụ thể là ở Bảng cân đối kế toán.
Ví dụ minh họa:
Số liệu của Công ty Cổ phần A trên Bảng cân đối kế toán tại ngày 31/12/2022 như sau (đvt: triệu đồng):
- Nợ ngắn hạn: 40.000
- Nợ dài hạn: 12.000
- Tổng tài sản: 80.000
Tỷ số nợ trên Tổng tài sản = Tổng nợ / Tổng tài sản
= (Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn) / Tổng tài sản
= ( 40.000 + 12.000 ) / 80.000 = 65%
DAR= 65% cho thấy tại thời điểm 31/12/2022, Công ty A có 65% giá trị Tổng tài sản được tài trợ bằng các khoản nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Chỉ số nợ trên tổng tài sản có ý nghĩa gì?
Như đã được đề cập ở phần nội dung trên, hệ số Debt to Assets Ratio giúp cho biết “bao nhiêu phần trăm tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng nguồn vay nợ”. Qua đó, các nhà quản trị có thể biết được khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp đang ở mức nào.
Cụ thể, kết quả khi tính ra chỉ số DAR sẽ có 2 trường hợp như sau:
DAR nhỏ hơn 1
Khi tỷ lệ DAR nhỏ hơn 1, điều này thể hiện rằng doanh nghiệp đi vay nợ ít. Đây được coi như là một tín hiệu tốt cho biết doanh nghiệp có khả năng tự chủ tài chính tốt. Mặt khác, nếu như tỷ lệ DAR mà nhỏ quá mức cũng có thể phản ánh rằng doanh nghiệp đang chưa biết cách khai thác cũng như tận dụng nguồn vốn vay tốt nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó giúp gia tăng doanh thu và lợi nhuận.
DAR lớn hơn 1
Ngược lại với trường hợp DAR < 1, nếu tỷ lệ DAR > 1 có nghĩa rằng là doanh nghiệp đang không có đủ tiềm lực về tài chính mà chủ yếu phải đi vay để có vốn kinh doanh. Nếu tình hình này cứ liên tục tiếp diễn trong một khoảng thời gian dài, lúc đó doanh nghiệp chắc chắn sẽ phải đối mặt với vô số áp lực khi các khoản vay đến kỳ đáo hạn. Đồng thời cũng sẽ khó mà huy động được thêm các khoản vay mới hoặc thậm chí phải chịu một mức lãi suất vay cao hơn.
Chỉ số nợ trên tổng tài sản bao nhiêu là tốt?
Trên thực tế, chỉ số DAR của một doanh nghiệp sẽ bị chi phối bởi khá nhiều yếu tố như là:
- Quy mô doanh nghiệp
- Loại hình doanh nghiệp
- Lĩnh vực doanh nghiệp đang kinh doanh
- Mục đích vay
Do đó, việc kiểm soát chỉ số DAR thực sự là không hề đơn giản. Vậy, chỉ số nợ trên tổng tài sản bao nhiêu sẽ là tốt? Thông thường, các nhà quản lý nên kiểm soát DAR ở mức độ 60/40 được coi là chấp nhận được, nghĩa là vốn vay chiếm 60% tổng tài sản của doanh nghiệp.
Hạn chế của chỉ số nợ trên tổng tài sản
Hạn chế lớn nhất của chỉ số nợ trên tổng tài sản là bỏ qua yếu tố “chất lượng tài sản”. Theo như các chuẩn mực kế toán hiện hành, tài sản sẽ được ghi nhận theo giá trị gốc ban đầu và được điều chỉnh định kỳ theo quý hoặc năm. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn không thể biết được liệu máy móc, trang thiết bị còn mới hay đã lỗi thời? Liệu có còn sử dụng được hay không?
Như các bạn cũng đã biết, tài sản của một doanh nghiệp sẽ bao gồm Tài sản hữu hình (nhà xưởng, máy móc, thiết bị,…) và Tài sản vô hình (bằng sáng chế, giá trị thương hiệu, quyền sử dụng đất,…). Theo đó, việc định giá tài sản hữu hình có thể cho ta kết quả tương đối chính xác, nhưng sang đến tài sản vô hình thì sẽ khó xác định hơn nhiều.
Lời kết
Chỉ số nợ trên tổng tài sản là một công cụ đắc lực cho các nhà đầu tư trong việc đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để việc đánh giá đạt kết quả tốt nhất, đừng chỉ nên tin tưởng tuyệt đối duy nhất một chỉ số để đánh giá mà cần phải kết hợp đan xen thêm nhiều chỉ số tài chính khác một cách linh hoạt. Hy vọng bài viết vừa rồi của Giavang.com đã mang đến cho quý bạn đọc các kiến thức hữu ích. Chúc bạn đầu tư chứng khoán thành công!
Tham khảo thêm